Một số bất cập trong Điều 134 và 260 Bộ luật Hình sự năm 2015
Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 đã chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Nhìn chung các quy định của BLHS 2015 có tính hợp lý, khoa học. Tuy nhiên, vẫn còn những quy định khi áp dụng trong thực tiễn đã bộc lộ những bất cập.
Bài viết này đề cập đến một số bất cập trong quy định mức độ thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của người khác làm căn cứ chủ yếu để định khung hình phạt trong tội Cố ý gây thương tích (Điều 134 BLHS) và Tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ (Điều 260 BLHS). Cụ thể như sau:
Khoản 3 Điều 134 quy định: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều này;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
Như vậy, ngoài các trường hợp có liên quan đến thuộc các điểm từ a đến k khoản 1 thì Khoản 3 Điều 134 BLHS có 02 trường hợp là: gây thương tích, tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên (điểm a); hoặc gây thương tích, tổn hại cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% (điểm c). Vậy đối với trường hợp gây thương tích cho 02 người, 01 người trên 61% và 01 người trong khoảng từ 31 đến 60% (ví dụ: 01 người 68%, 01 người 35%) và không thuộc các điểm từ a đến k khoản 1? Nếu xét về câu chữ thì điểm a sẽ thiếu 01 người 35% còn điểm c sẽ có 01 người vượt quá 31% đến 60%. Tất nhiên quá trình áp dụng vẫn xác định được trường hợp trên thuộc khoản 3 Điều 134 vì đã có 01 người từ 61% trở lên (theo điểm a). Nhưng rõ ràng cách quy định của Điều luật chưa thể hiện được đầy đủ các trường hợp thực tế.
Cũng liên quan đến Điều 134 còn có trường hợp như sau: gây thương tích làm chết 01 người và 01 người bị thương trên 61% (dùng hung khí nguy hiểm). Trường hợp này thuộc điểm a, điểm d khoản 4.
Điểm a, điểm d Khoản 4 Điều 134 quy định: Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm:
a) Làm chết người;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;…
Tuy nhiên khi so sánh với trường hợp quy định tại điểm b khoản 5 Điều 134 “gây thương tích cho 02 người, mỗi người từ 61% trở lên và thuộc một trong các trường hợp từ điểm a đến điểm k khoản 1” thì sẽ thấy sự bất hợp lý. Việc làm chết 01 người, bị thương 01 người trên 61% lại có mức độ nghiêm trọng ít hơn làm bị thương 02 người trên 61%. Vì một trường hợp thuộc khoản 4 (từ 07 đến 14 năm) và một trường hợp thuộc khoản 5 (từ 12 đến 20 năm hoặc tù chung thân).
Tương tự như trên là quy định tại Điều 260 BLHS. Trường hợp vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại: làm chết 01 người và gây thương tích cho 01 người từ trên 61% sẽ thuộc khoản 1. Nhưng gây thương tích cho 02 người mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200% (ví dụ một người 62%, một người 68%, tổng 130%) lại thuộc khoản 2. Trên thực tế khi xét xử thì việc quyết định mức hình phạt còn phụ thuộc nhiều căn cứ khác, nhưng rõ ràng về tính hợp lý, khoa học của Điều luật thì cách chia các trường hợp như trên chưa phù hợp.
Việc cụ thể các tình tiết vào từng điểm, khoản của Điều luật là cần thiết. Tuy nhiên đối với việc định khung hình phạt căn cứ vào mức độ thiệt hại về tính mạng, sức khỏe thì khá phức tạp vì chia làm nhiều trường hợp khác nhau. Vì vậy cần có sự hệ thống, phân chia một cách khoa học, đầy đủ để tránh những bất cập nêu trên.
Nguyễn Phượng – VKSND huyện Hải Hà
Tin tức mới nhất
Viện kiểm sát nhân dân Khu vực 3 – Quảng Ninh tổ chức Cuộc thi “Báo cáo án bằng sơ đồ tư duy”
Trong bối cảnh toàn ngành Kiểm sát nhân dân đang mạnh mẽ đẩy nhanh tiến...
Th9
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh kiểm sát chặt chẽ công tác đặc xá năm 2025
Nhân dịp kỷ niệm 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa...
Th9
Viện kiểm sát nhân dân khu vực 2 và Công an 09 phường ký Quy chế phối hợp liên ngành
Ngày 28/8/2025, tại trụ sở Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) khu vực 2, tỉnh...
Th8
Phòng 9 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh trực tiếp xác minh các vụ việc có dấu hiệu xâm phạm lợi ích công
Thực hiện Nghị quyết số 205/NQ-QH15 ngày 24/6/2025 của Quốc hội về việc thí điểm...
Th8
VKSND tỉnh Quảng Ninh họp Uỷ ban Kiểm sát mở rộng để thảo luận, xác định các vụ việc đủ điều kiện khởi kiện vụ án dân sự công ích
Sáng ngày 27/8/2025, tại trụ sở cơ quan, đồng chí Phạm Viết Vượng, Bí thư...
Th8
VKSND tỉnh Quảng Ninh kiểm tra toàn diện công tác năm 2025 tại VKSND khu vực 5
Thực hiện Quyết định số 6864 ngày 12/8/2025 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân...
Th8
VKSND tỉnh Quảng Ninh kiểm tra toàn diện công tác năm 2025 tại các Viện kiểm sát nhân dân khu vực
Thực hiện Kế hoạch số 687/QĐ-VKS ngày 31/12/2024 về công tác kiểm tra năm 2025...
Th8
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh tổ chức Lễ tuyên dương con em cán bộ công chức, người lao động đạt thành tích cao trong học tập năm học 2024-2025
Chiều ngày 27/8/2025, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh tổ chức Lễ tuyên...
Th8
Viện kiểm sát nhân dân khu vực 3 phối hợp với Phòng Thi hành án dân sự xác minh điều kiện thi hành án đối với các trường hợp chưa có điều kiện thi hành án
Thực hiện kế hoạch công tác kiểm sát thi hành án dân sự năm 2025,...
Th8