CÔNG MINH, CHÍNH TRỰC, KHÁCH QUAN, THẬN TRỌNG, KHIÊM TỐN

Định giá đối với động vật hoang dã – Thực tiễn và những khó khăn, vướng mắc

Động vật hoang dã (ĐVHD) là nguồn tài nguyên quý giá của quốc gia, nhất là những loài nguy cấp, quý, hiếm, bởi sự tuyệt chủng của chúng sẽ gây hậu quả khó lường đối với toàn bộ hệ sinh thái. Việt Nam là quốc gia có mức độ đa dạng sinh học cao trên thế giới. Nhận thức tầm quan trọng của hoạt động bảo vệ ĐVHD, từ năm 1994, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Công ước về thương mại quốc tế các loài động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES) với mục tiêu kiểm soát chặt chẽ việc buôn bán, vận chuyển bất hợp pháp các loài động vật, thực vật nguy cấp, quý, hiếm và mẫu vật của chúng trong hoạt động thương mại quốc tế. Đến nay, sau 30 năm, các quy định của Công ước CITES đã cơ bản được luật hóa trong pháp luật xử lý vi phạm hành chính và hình sự. Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS) quy định 2 tội danh liên quan, gồm: Điều 234 “Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã” và Điều 244 “Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm”, với mức phạt tù cao nhất lên tới 15 năm tù và phạt tiền lên tới 15 tỉ đồng đây là hình phạt rất nghiêm để răn đe phòng ngừa, ngăn chặn các hành vi xâm hại đến ĐVHD. Tuy nhiên, qua thực tiễn đấu tranh, áp dụng các quy định của pháp luật để xử lý tội phạm liên quan đến ĐVHD, nhận thấy nhiều quy định đã bộc lộ một số vướng mắc. Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi chỉ đề cập đến 1 vấn đề định giá vật chứng để xử lý theo điều 234 BLHS, mà đơn vị đã giải quyết xử lý trong thời gian qua.

  Khi bắt quả tang, thu giữ vật chứng là cá thể hoặc sản phẩm của của loài động vật hoang dã nằm trong Danh mục tại các Phụ lục của Công ước CITES, khi cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu định giá số vật chứng trên thì Cơ quan được trưng cầu thường từ chối định giá với lý do những loài động vật hoang dã này đều được xác định là hàng cấm theo quy định tại Phụ lục I,  không được mua bán phổ biến chính thức trên thị trường, do đó không có căn cứ để Cơ quan được trưng cầu có thể tiến hành định giá. Điều này gây khó khăn cho các Cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định các căn cứ cấu thành tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội  “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã”  quy định tại Điều 234 BLHS.

  Theo quy định tại Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 của Chính phủ quy định chi tiết việc thành lập và hoạt động của Hội đồng định giá tài sản; trình tự, thủ tục định giá tài sản trong tố tụng hình sự, quy định tại Điều 15 của Nghị định thì: Việc định giá tài sản là hàng cấm phải dựa trên ít nhất một trong những căn cứ sau: Giá thị trường của tài sản; Giá do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định, quyết định; Giá do doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp; Giá trong tài liệu, hồ sơ kèm theo tài sản cần định giá (nếu có); Các căn cứ khác về giá hoặc giá trị của tài sản cần định giá. theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 15 .

Căn cứ vào quy định như trên Cơ quan điều tra khi trưng cầu đã cung cấp cho Hội đồng định giá Chứng thư thẩm định giá của 2 doanh nghiệp thẩm định giá cung cấp và Hội đồng định giá tài sản trong TTHS đã chấp thuận ban hành kết luận định giá tài sản theo Quyết định trưng cầu của cơ quan điều tra.

 Qua việc áp dụng căn cứ tham khảo giá của doanh nghiệp thẩm định giá đối với động vật hoang dã, đơn vị thấy nảy sinh một số khó khăn, vướng mắc. Cụ thể:

Thực tế, Hội đồng định giá đã thực hiện theo quy định tại Điều 15 Nghị định số 30/2018/NĐ-CP ngày 07/3/2018 của Chính phủ, tài liệu tham khảo là chứng thư của cơ quan thẩm định, cơ quan này có tư cách pháp nhân và chịu toàn bộ trách nhiệm về kết quả thẩm định theo quy định của pháp luật, từ đó, ban hành Kết luận định giá tài sản.

Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 3 Điều 15 Nghị định 30 được hướng dẫn chi tiết hơn tại khoản 4 Điều 3 Thông tư 43 như sau:

“…b) Trường hợp tại địa điểm được yêu cầu định giá không thu thập được các mức giá của tài sản cần định giá hoặc tài sản tương tự thì mở rộng khu vực thu thập thông tin về giá sang các khu vực có đặc điểm thị trường tương tự với địa điểm được yêu cầu định giá. Trường hợp không thu thập được các mức giá của tài sản cần định giá hoặc tài sản tương tự trong lãnh thổ Việt Nam, thì mở rộng việc thu thập giá tại khu vực và thế giới trên các trang thông tin điện tử chính thức của các cơ quan, tổ chức sản xuất, kinh doanh tại khu vực và thế giới”

  Doanh nghiệp thẩm định giá đã căn cứ theo hướng dẫn này để làm cơ sở thu thập tài liệu để ban hành chứng thư thẩm định của doanh nghiệp mình. Tuy nhiên, mỗi địa phương hoặc khu vực giá khác nhau nên việc áp dụng giá không thống nhất. Việc quy định như vậy, không chính xác, bởi lẽ đã là hàng cấm thì đa số không được lưu thông trên thị trường, do vậy không thể có căn cứ để quy định  mức giá! Đặc biệt là đối với động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm thì càng không thể có căn cứ chính xác nào để quy định về giá, chỉ là định giá theo cảm tính. Dẫn đến tình trạng cùng về một hành vi, việc áp dụng giá không thống nhất dẫn đến cùng một loài, một cá thể động vật nguy cấp, quý, hiếm thì ở địa phương này người vi phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự còn ở địa phương khác thì có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự

 Ví dụ như cùng về định giá cá ngựa khô: Bản án hình sự sơ thẩm số 68/2023/HS-ST ngày 21/7/2023 của TAND huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội ghi nhận: Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự có kết luận định giá số 07/KL-HDDGTS ngày 19/01/2023 xác định 10kg cá ngựa khô có giá 240 triệu đồng (tương đương 24 triệu đồng/kg).

 Bản án hình sự sơ thẩm số 28/2023/HS-ST ngày 25/4/2023 của TAND huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng ghi nhận: Kết luận định giá tài sản số 67 ngày 08/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản kết luận: Trị giá 14,5 kg các cá thể cá ngựa khô là 210.127.177 đồng (tương đương gần 14,5 triệu đồng/kg).

  Kết luận định giá tài sản số 23/KL-HĐĐGTS ngày 10/7/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự – UBND thành phố Uông Bí kết luận: Tại thời điểm tháng 07/2023, cá ngựa khô có giá là 22.500.000đồng/kg.

Việc giá trị của cá ngựa khô được định giá khác nhau trong gần như cùng thời điểm có thể lý giải một phần là do loài cá ngựa khác nhau. Tuy vậy, điều này cũng gây không ít khó khăn cho các Hội đồng định giá tài sản để có thể tham khảo mức giá và đưa ra kết luận phù hợp.

Một số kiến nghị:

Những vướng mắc trong việc định giá tài sản như đã nêu là nguyên nhân dẫn đến kết quả định giá tài sản không bảo đảm tính khách quan, xác thực và còn làm kéo dài thời gian, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giải quyết vụ án, cũng như  hiệu quả đấu tranh, ngăn chặn nạn buôn bán, vận chuyển, tàng trữ trái phép động vật hoang dã. Do đó, để đảm bảo việc nhận thức, áp dụng pháp luật trong định giá ĐVHD được thống nhất trong thực tiễn, tác giả có một số kiến nghị sau:

Một là, liên ngành Trung ương có hướng dẫn thống nhất riêng biệt các căn cứ để Doanh nghiệp thẩm định giá ban hành chứng thư định giá đối với động vật hoang dã. Do tính đặc biệt của hàng hóa cấm này.

Hai là, ban hành quy định cụ thể về giá trị đối với động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm khi bị xâm hại.

                                                         Bộ phận thi hành án dân sự-VKS TP Uông Bí

Tin tức mới nhất