CÔNG MINH, CHÍNH TRỰC, KHÁCH QUAN, THẬN TRỌNG, KHIÊM TỐN

Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.

 

Quyền con người là giá trị mang tính phổ biến chung của nhân loại, là kết quả của quá trình đấu tranh, phát triển lâu dài của tất cả các dân tộc, nhân dân trên toàn thế giới. Quyền con người được quan tâm từ dư luận các nước và có sự tác động mạnh mẽ tới chính trị, xã hội của mỗi quốc gia và quốc tế. 

Trên thế giới, quyền con người được thể hiện rõ qua các văn kiện quốc tế: Hiến chương Liên Hợp Quốc về quyền con người năm 1945; Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế, 1948; Tuyên bố Viên và Chương trình Hành động năm 1993; Tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc năm 2000. Tại Việt Nam, việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là mục tiêu chung của Đảng và Nhà nước ta từ trước đến nay. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, Hiến pháp 2013 đã ghi nhận quy định về quyền con người – đây là một trong những thành tựu quan trọng trong hoạt động lập hiến nước ta. Nội dung về quyền con người được thể hiện một cách đầy đủ, sâu sắc hơn trong việc thể chế hóa quan điểm của Đảng và nhà nước đối với việc đề cao con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu của sự phát triển đất nước.

Hoạt động tố tụng hình sự là quá trình giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật bao gồm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự là sự vận hành của các yếu tố khách quan nhằm mục đích công bố, ghi nhận về mặt pháp lý các quyền con người trong tố tụng hình sự và bảo vệ và thực thi các quyền đó trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Viện kiểm sát là một cơ quan hiến định, là một bộ phận, một mắt xích hợp thành bộ máy nhà nước. Do vậy, Viện kiểm sát có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, pháp chế, bảo vệ quyền con người.

Tại khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định rõ: “Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất’’. Theo đó, vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân được nâng cao, khẳng định rõ vị thế của ngành trong việc bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất mà còn góp phần bảo vệ quyền con người trong hoạt động tố tụng. Viện kiểm sát không chỉ thực hiện quyền công tố mà còn kiểm sát các hoạt động của các cơ quan tư pháp, đóng vai trò thể hiện quan trọng trong giai đoạn tố tụng từ tin báo, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.

Trong giai đoạn khởi tố, để bảo đảm việc khởi tố của Cơ quan điều tra, các Cơ quan được giao nhiệm thực hiện một số hoạt động điều tra được đúng người, đúng tội và đúng pháp luật thì cần phải có các quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát. Trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm bảo đảm các hoạt động điều tra, các biện pháp ngăn chặn, các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người bị bắt, bị can, bị cáo được tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Viện kiểm sát vừa là cơ quan có quyền quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn đồng thời cũng là cơ quan kiểm sát việc áp dụng các quyết định của các cơ quan có thẩm quyền ra quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn để bảo vệ quyền con người. Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát truy tố bị can đúng người, đúng tội, đúng pháp luật góp phần bảo vệ quyền con người khi họ bị xâm phạm trái pháp luật. Tuy nhiên, nếu không đủ căn cứ thì vụ án phải đình chỉ, quy định này nhằm bảo vệ quyền của bị can, hạn chế oan, sai. Trong giai đoạn xét xử, việc Tòa án có ra bản án đúng pháp luật cần phụ thuộc vào công tác thực hiện quyền công tố và kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát trước, trong và sau phiên tòa hình sự.

Thông qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật.

Trong khuôn khổ bài viết, tác giả tập trung phân tích một số vấn đề mang tính khái quát về bảo vệ quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự của Viện kiểm sát:

1. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam

Viện kiểm sát nhân dân thực hiện công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam ngay từ giai đoạn bắt đầu của quá trình tố tụng, kể từ khi phát sinh việc tạm giữ, tạm giam đến khi kết thúc việc giam, giữ. Trách nhiệm của Viện kiểm sát phải bảo đảm bất cứ trường hợp nào bị tạm giữ, tạm giam đều có đủ hai yếu tố: Đúng người, đúng hành vi và phải tuân theo đúng trình tự thủ tục của pháp luật. Việc tạm giữ, tạm giam phải tuân thủ các quy định của pháp luật; chế độ tạm giữ, tạm giam được bảo đảm; các quyền con người được tôn trọng và bảo vệ. Việc tạm giữ, tạm giam người thường được áp dụng trong đấu tranh chống tội phạm. Thực tiễn cho thấy quyền con người đối với người bị tạm giữ, tạm giam trong quá trình tiến hành tố tụng vẫn còn vi phạm xuất phát từ nhiều nguyên nhân: bất cập của các quy định của pháp luật, năng lực chuyên môn của người thực thi pháp luật,…Chính vì vậy, để bảo đảm quyền con người trong việc tạm giữ, tạm giam, Viện kiểm sát cần phải thực hiện tốt một số công tác sau:

Thứ nhất, Viện kiểm sát kiểm sát việc tiếp nhận người bị tạm giữ, người bị tạm giam của cơ sở giam giữ nhằm bảo đảm cơ sở giam giữ thực hiện đầy đủ trách nhiệm theo quy định tại Điều 16 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam và các quy định của pháp luật khác có liên quan. Viện kiểm sát kiểm sát việc lập hồ sơ và thực hiện chế độ quản lý, lưu trữ hồ sơ tạm giữ, tạm giam của cơ sở giam giữ theo quy định tại Điều 17 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam và các quy định của pháp luật khác có liên quan. Gặp, hỏi người bị tạm giữ, tạm giam về việc thực hiện các quy định của pháp luật trong tạm giữ, tạm giam, đảm bảo cho việc tạm giữ, tạm giam được thực hiện khách quan, bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ, tạm giam.

Thứ hai, Viện kiểm sát kiểm sát chặt chẽ về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục, thời hạn áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam của cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và các quy định của pháp luật khác có liên quan. Khi phát hiện việc tạm giữ, tạm giam vi phạm về căn cứ, thẩm quyền, thủ tục, thời hạn tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát phải làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm của cơ quan, cá nhân; tùy theo tính chất, mức độ vi phạm để kháng nghị, kiến nghị yêu cầu xử lý.

Thứ ba, Kiểm sát viên trực tiếp kiểm sát tại nhà tạm giữ, trại giam; nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm thì Viện kiểm sát có thể tiến hành kiểm sát vào bất cứ thời điểm nào trong ngày, đồng thời yêu cầu Nhà tạm giữ, Trại tạm giam chấm dứt việc vi phạm pháp pháp luật. Viện kiểm sát kiểm sát cơ sở giam giữ bảo đảm cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam thực hiện quyền con người; bảo đảm nhân đạo, không tra tấn, truy bức, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam. Viện kiểm sát kiểm sát việc cơ sở giam giữ bảo đảm thực hiện các chế độ ăn, ở, mặc và tư trang; gửi và nhận thư, sách báo, tài liệu; chăm sóc y tế, sinh hoạt tinh thần đối với người bị tạm giữ, tạm giam.

Thứ tư, Viện kiểm sát kiểm sát việc thực hiện chế độ quản lý giam giữ. Khi phát hiện vi phạm, tồn tại trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam thì Viện kiểm sát thực hiện quyền kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ quan quản lý, cơ quan thi hành tạm giữ, tạm giam khắc phục ngay và có biện pháp chấn chỉnh, tổ chức phòng ngừa theo quy định của pháp luật.

Thứ năm, khi kiểm sát tại cơ sở giam giữ nếu nhận được đơn khiếu nại, tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam thì Kiểm sát viên phải lập biên bản ghi nhận việc tiếp nhận đơn với cơ sở giam giữ, chuyển cho đơn vị có thẩm quyền giải quyết, đồng thời sao gửi đến đơn vị, bộ phận Kiểm sát và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp tiếp nhận. Sau khi tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, nếu xét thấy cần thiết Kiểm sát viên có thể trực tiếp gặp gỡ, đối thoại với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người tố cáo, người bị tố cáo và những người có liên quan để xác minh nội dung những khiếu nại, tố cáo; trực tiếp giải quyết những khiếu nại, tố cáo có liên quan đến việc chấp hành các quy định của pháp luật về tạm giữ, tạm giam.

Tạm giữ, tạm giam là biện pháp ngăn chặn nhằm hạn chế một số quyền con người của người bị tạm giữ, tạm giam. Chính vì vậy, công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam cần phải phối hợp chặt chẽ với các khâu công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hình sự để nắm chắc số người bị bắt, tạm giữ, tạm giam qua đó kịp thời kiểm sát về thủ tục, trình tự, tính có căn cứ và hợp pháp của từng trường hợp bị tạm giữ, tạm giam nhằm phát hiện và xử lý vi phạm; không để xảy ra việc giam giữ người không có căn cứ, trái pháp luật.

2. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc áp dụngbiện pháp ngăn chặn

Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là biện pháp cưỡng chế mà người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc người chưa bị khởi tố về hình sự khi có những căn cứ luật định nhằm mục đích kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc bảo đảm không gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc không tiếp tục phạm tội. Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong hoạt động tố tụng hình sự nhằm góp phần vào việc bảo đảm các quy định của pháp luật được chấp hành nghiêm túc, quyền và lợi ích của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng không bị xâm hại.

Tại khoản 4 Điều 165 cùa BLTTHS năm 2015 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra: “Phê chuẩn, không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ, việc tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, áp dụng biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt; phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật này; hủy bỏ các quyết định tố tụng không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Trường hợp không phê chuẩn hoặc hủy bỏ thì trong quyết định không phê chuẩn hoặc hủy bỏ phải nêu rõ lý do.”. Trong giai đoạn truy tố, theo quy định Điều 241 BLTTHS năm 2015, Viện kiểm sát có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn: “Sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát có quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn áp dụng biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn truy tố không được quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 240 của Bộ luật này.”

Vai trò của Viện kiểm sát về việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn được thể hiện rõ nét ở giai đoạn điều tra, truy tố. Trong giai đoạn điều tra, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn là hoạt động bảo đảm cho việc điều tra, thu thập chứng cứ đạt hiệu quả, trái lại việc áp dụng các biện pháp này lại xâm phạm trực tiếp đến quyền con người, chính vì vậy, đòi hỏi Viện kiểm sát khi làm nhiệm vụ của mình thì phải nghiên cứu, xem xét một cách đầy đủ, toàn diện trên cơ sở hồ sơ, tài liệu, chứng cứ, thẩm quyền, thủ tục để quyết định phê chuẩn hay không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra. Trong giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát trực tiếp ra quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn có thể thay đổi từ biện pháp này sang biện pháp khác khi xét thấy cần thiết. Các biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm sát phê chuẩn thì việc thay đổi phải do Viện kiểm sát quyết định. Khi xét thấy không cần thiết phải áp dụng biện pháp ngăn chặn mà bị can đang bị áp dụng thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, trả tự do cho bị can. Khi vụ án bị đình chỉ thì mọi biện pháp ngăn chặn đã áp dụng đều được huỷ bỏ.Trong giai đoạn xét xử, Viện kiểm sát thực hiện chức năng kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn của Tòa án theo quy định tại Điều 267 BLTTHS năm 2015.

Đối với trường hợp xét phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp quy định tại Điều 110 BLTTHS năm 2015, trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Trường hợp Viện kiểm sát quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp thì người đã ra lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra đã nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp phải trả tự do ngay cho người bị giữ. Trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên phải trực tiếp gặp, hỏi người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Như vậy, Viện kiểm sát có vai trò kiểm sát chặt chẽ các căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn này nhằm bảo đảm việc áp dụng là chính xác, tránh việc lạm dụng quyền hạn, bảo đảm các quyền và lợi ích của người bị bắt.

Đối với trường hợp kiểm sát việc tạm giữ, khi nhận được quyết định tạm giữ, gia hạn tạm giữ của Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên tiến hành kiểm tra ngay tính có căn cứ và hợp pháp của việc tạm giữ, gia hạn tạm giữ. Nếu thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định huỷ bỏ quyết định tạm giữ hoặc trực tiếp ra quyết định huỷ bỏ quyết định tạm giữ và yêu cầu Cơ quan điều tra trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Nếu xét thấy việc gia hạn tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì ra quyết định không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và yêu cầu người đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ. Nếu thấy việc gia hạn tạm giữ có căn cứ và cần thiết thì ra quyết định phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ.

Đối với trường hợp bắt bị can để tạm giam, VKS phải nghiên cứu, nếu thấy việc bắt tạm giam của Cơ quan điều tra là có căn cứ và cần thiết thì Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt, tạm giam; nếu trong trường hợp không có căn cứ hoặc thiếu căn cứ thì Viện kiểm sát không phê chuẩn, trong trường hợp này, Viện kiểm sát phải nêu rõ lý do trong quyết định không phê chuẩn. Trong trường hợp thấy thiếu căn cứ thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, bổ sung chứng cứ để Viện kiểm sát tiếp tục xem xét việc có phê chuẩn hay không. Bắt bị can, bị cáo để tạm giam có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, quyền tự do dân chủ của công dân. Luật quy định việc phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp nhằm bảo đảm cho việc bắt người đúng pháp luật và chỉ bắt những người thực sự cần phải bắt để ngăn chặn tội phạm hoặc để phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

Như vậy, việc kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn nhằm bảo đảm cho việc áp dụng đúng pháp luật, mọi hoạt động xâm phạm đến các quyền của con người không bị pháp luật tước bỏ đều phải được phát hiện và xử lý kịp thời.

3. Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự

Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ quyền hạn sau: Công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa. Xét hỏi, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa. Kháng nghị bản án, quyết định của tòa án trong trường hợp phát hiện oan sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. Viện kiểm sát bảo vệ quyền con người thông qua hoạt động truy tố, buộc tội người phạm tội, để Tòa án xét xử, kết tội, quyết định hình phạt. Bằng cách đó góp phần phòng ngừa tội phạm và khôi phục các quyền và lợi ích của người bị hại, người có quyền, lợi ích có liên quan bị kẻ phạm tội xâm phạm.

Bảo đảm quyền con người bằng hoạt động kiểm sát xét xử vụ án hình sự nhằm bảo đảm việc tuân theo pháp luật của Tòa án, hội đồng xét xử, người tham gia tố tụng. Kiểm sát xét xử vừa bảo đảm cho pháp luật đúng, thống nhất, nghiêm minh vừa kịp thời ngăn chặn được vi phạm pháp luật ảnh hưởng đến quyền con người. Mỗi quyết định của Tòa án đều có tác động rất lớn đến quyền của con người như quyền sống, quyền tự do và sự tác động của mỗi quyết định của Tòa án không chỉ tác động đến những người tham gia tố tụng mà tác động đến toàn xã hội.

 Kiểm sát xét xử là hoạt động kiểm sát hành vi và quyết định tố tụng khi áp dụng pháp luật có đúng pháp luật hay không? hoạt động kiểm sát phải tuân thủ pháp luật chặt chẽ các quy định của pháp luật để kịp thời phát hiện, ngăn ngừa vi phạm pháp luật trong xét xử, góp phần vào việc nhằm đảm bảo công tác xét xử của Tòa án có căn cứ và hợp pháp. Có thể thấy rằng để bảo đảm quyền con người, Tòa án phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật, việc điều tra xét hỏi tại phiên toà, việc ra các bản án, quyết định… Viện kiểm sát phải thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình mới bảo đảm việc xét xử vụ án hình sự có căn cứ và hợp pháp, đồng thời hạn chế được lạm dụng quyền lực và vi phạm quyền con người trong xét xử hình sự.

Như vậy, việc tổ chức thực hiện tốt chức năng của Viện kiểm sát đã được Hiến định là “Cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp” sẽ góp phần không nhỏ trong giải quyết vụ án hình sự; đảm bảo quyền con người được tôn trọng và bảo vệ; xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

Nguyễn Khánh – VKSND huyện Đầm Hà

Tin tức mới nhất