CÔNG MINH, CHÍNH TRỰC, KHÁCH QUAN, THẬN TRỌNG, KHIÊM TỐN

Một số trao đổi về tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù trong giai đoạn hiện nay

Tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù là một chế định pháp lý quan trọng thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật nhà nước ta đối với người chấp hành án phạt tù khi họ gặp những khó khăn đặc biệt, làm ảnh hưởng đến quá trình chấp hành án.

  1. Về điều kiện, theo quy định tại khoản 1 Điều 68 Bộ luật hình sự: “Người đang chấp hành hình phạt tù mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 67 của Bộ luật này, thì có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.”, khoản 1 Điều 67 Bộ luật hình sự quy định: Người bị xử phạt tù có thể được hoãn chấp hành hình phạt trong các trường hợp sau đây:
  2. a) Bị bệnh nặng thì được hoãn cho đến khi sức khỏe được hồi phục;
  3. b) Phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, thì được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi;
  4. c) Là người lao động duy nhất trong gia đình, nếu phải chấp hành hình phạt tù thì gia đình sẽ gặp khó khăn đặc biệt, được hoãn đến 01 năm, trừ trường hợp người đó bị kết án về các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội khác là tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
  5. d) Bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, do nhu cầu công vụ, thì được hoãn đến 01 năm.”

          Tại Điều 8 Nghị quyết 03/2024/NQ-HĐTP ngày 10/6/2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định:

1. Người đang chấp hành hình phạt tù mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 67 của Bộ luật Hình sự và có nơi cư trú rõ ràng thì có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù.

  1. Thời gian tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù được xác định theo quy định tại khoản 1 Điều 67 của Bộ luật Hình sự.

          Đối với người đang chấp hành hình phạt tù bị bệnh nặng thì có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù một lần hoặc nhiều lần cho đến khi sức khỏe hồi phục.

          Đối với người đang chấp hành hình phạt tù là lao động duy nhất trong gia đình hoặc do nhu cầu công vụ thì có thể được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù một lần hoặc nhiều lần, nhưng tổng số thời gian được tạm đình chỉ tối đa là 01 năm.

Như vậy, ngoài điều kiện cần được quy định tại Bộ luật hình sự thì điều kiện đủ để tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù còn phải có nơi cư trú rõ ràng để đảm bảo việc theo dõi quản lý trong thời gian tạm đình chỉ.

Về các điều kiện nêu trên, trong thực tế thường xảy ra là điều kiện “bị bệnh nặng” các điều kiện còn lại ít xảy ra đối với phạm nhân vì nếu có thì đã được xem xét giải quyết trước khi người bị xử phạt tù đi chấp hành án theo chế định hoãn chấp hành án phạt tù.

  1. Về trình tự thủ tục tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, được quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2021/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 12/8/2021 đã được sửa đổi bổ sung tại Thông tư liên tịch số 01/2025/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 30/6/2025. Trong đó đáng lưu ý theo các quy định tại điểm đ, e, g, h khoản 1, Điều 5 TTLT số 02/2021 và khoản 2, Điều 2 TTLT số 01/2025 yêu cầu:

– Đối với phạm nhân là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi phải có kết luận của Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp cơ bản trở lên về việc phạm nhân có thai hoặc bản sao Giấy khai sinh hoặc Giấy chứng sinh của con phạm nhân, xác nhận của Giám thị Trại giam, Trại tạm giam, nơi phạm nhân đang chấp hành án về việc họ đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi trong Trại giam, Trại tạm giam, phân trại tạm giam Công an cấp tỉnh.

– Đối với phạm nhân bị bệnh nặng phải có kết luận của Hội đồng giám định y khoa hoặc bản sao bệnh án, kết luận của cơ sở khám bênh, chữa bệnh cấp chuyên sâu hoặc bệnh viện cấp quân khu trở lên về tình trạng sức khỏe của người đó. Riêng phạm nhân bị nhiễm HIV đã chuyển giai đoạn lâm sàng IV phải có kết quả xét nghiệm HIV theo quy định của Bộ Y tế và bản sao Bệnh án hoặc kết luận của cơ quan y tế có thẩm quyền khẳng định đã chuyển giai đoạn lâm sàng IV, đang có nhiễm trùng cơ hội, không có khả năng tự phục vụ bản thân và có tiên lượng xấu.

– Đối với phạm nhân được đề nghị tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù vì lý do là lao động duy nhất trong gia đình phải có Bản tường trình có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phạm nhân cư trú, về việc phạm nhân là lao động duy nhất trong gia đình, nếu tiếp tục chấp hành án phạt tù thì gia đình sẽ gặp hoàn cảnh khó khăn đặc biệt.

– Đối với phạm nhân được đề nghị tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù do nhu cầu công vụ phải có văn bản đề nghị của cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương hoặc đơn vị quân đội có liên quan đến việc thực hiện công vụ đó.

  1. Về thẩm quyền ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, đã có sự thay đổi. Nếu như trước đây theo quy định tại Điều 36 Luật thi hành án hình sự, thẩm quyền này thuộc về Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi Phạm nhân đang chấp hành án xem xét quyết định, từ ngày 01/7/2025 theo quy định tại khoản 1, Điều 2, Luật số 86/2025/QH15 ngày 25/6/2025: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật hình sự; Điều 14 Thông tư liên tịch số 04/2025/TTLT- BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 27/6/2025 thì thẩm quyền xem xét quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù thuộc về Tòa án nhân dân khu vực, nơi phạm nhân đang chấp hành án. Theo quy định tại điểm c, khoản 3, Điều 13 Thông tư liên tịch số 04/2025/TTLT- BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 27/6/2025, Viện kiểm sát nhân dân khu vực có trách nhiệm kiểm sát hoạt động thi hành án hình sự này của Tòa án nhân dân khu vực.

Trên đây là những điểm rất mới theo quy định pháp luật hiện nay đối với việc tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù. Theo quy định nêu trên thì từ ngày 01/7/2025, đối với các trường hợp đang chờ đi chấp hành án phạt tù, phạm nhân tại Trại tạm giam, phân trại thuộc Trại tạm giam Công an tỉnh nếu phát sinh điều kiện tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù sẽ do Trại tạm giam và Cơ quan Thi hành án hình sự Công an tỉnh phối hợp xây dựng hồ sơ, đề nghị Tòa án nhân dân khu vực nơi có trụ sở chính của Trại tạm giam xem xét, quyết định tạm đình chỉ; đối với các phạm nhân đang chấp hành án tại Trại giam sẽ do Trại giam xây dựng hồ sơ đề nghị Tòa án nhân dân khu vực nơi có trụ sở chính của Trại giam xem xét quyết định.

Đối với các nội dung khác trong việc thực hiện trình tự thủ tục tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, tiếp tục được thực hiện theo quy định tại Luật Thi hành án hình sự, Thông tư liên tịch số 02/2021 ngày 12/8/2021 và Nghị quyết 03/2024 ngày 10/6/2024 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Việc nắm vững các căn cứ pháp lý trong quá trình kiểm sát việc tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù là vấn đề hết sức cần thiết, trong khi đó nhiệm vụ kiểm sát việc lập hồ sơ và ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù là nhiệm vụ hoàn toàn mới của Viện kiểm sát nhân dân khu vực mà chưa có hướng dẫn của Ngành. Do đó trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, các Viện kiểm sát nhân dân khu vực cần bám sát quy chế nghiệp vụ của Ngành, nghiêm túc thực hiện chế độ thông tin báo cáo và thỉnh thị với Viện kiểm sát nhân dân tỉnh nếu có vướng mắc, khó khăn. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi xin chia sẻ, trao đổi những nghiên cứu của mình với các đồng nghiệp đang làm công tác kiểm sát thi hành án hình sự.

 

                                                        Nguyễn Bá Linh – Phòng 8 VKSND tỉnh Quảng Ninh

Tin tức mới nhất

Để lại một bình luận